Việt nam: Đảng đã lãnh đạo thì Quốc hội có để làm gì?

Kami

    

                    Quốc hội mà vinh danh đảng CSVN muôn năm thì có để làm gì?

Không ngờ trào lưu “World Cup 2010 fever” đang ngự trị và thu hút sự quan tâm của hầu hết đại đa số mọi người trên hành tinh, ở đâu người ta cũng hướng về đất nước Nam phi nơi giải vô địch bóng đá thế giới đang diễn ra, nhưng ở Việt nam cơn sốt bóng đá thế giới cũng không làm giảm sút sự quan tâm của người Việt nam về vấn đề hết sức nóng về tính thời sự và tầm quan trọng của nó, đó là Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam đang được bàn thảo sôi nổi tại Quốc hội. Vào buổi sáng tại các quán cà phê người ta nói chuyện bóng đá World Cup và chuyện Dự án đường sắt cao tốc, vào buổi chiều ở các quán nhậu người ta nói chuyện Dự án đường sắt cao tốc và chuyện bóng đá World Cup. Đây là hai chủ đề này nóng ở Việt nam được những người quan tâm đến tình hình thế sự thường mang ra tranh luận.

 Nhưng khổ một điều cho các đại biểu Quốc hội và những người dân quan tâm là họ quên mất một điều rằng, những vấn đề đang bàn thảo trên nghị trường Quốc hội mà báo chí đưa tin hàng ngày được đông đảo mọi người bàn luận sôi nổi ở mọi chỗ mọi nơi đó không hề có một ý nghĩa gì dù là nhỏ nhất về mặt thực tế. 

Vì sao lại nói như vậy?

Hãy bắt đầu bằng một tin hôm nay (15/6) trên trang Pháp luật TP Hồ Chí Minh, bài “Quốc hội mất quyền kiểm soát các siêu dự án?” [*] mang tính cảnh báo về quyền lực cao nhất của cơ quan Lập pháp (Quốc hội) đang bị cơ quan hành pháp (Chính phủ) lấn áp. Đặc biệt bài viết này xuất hiện vào thời điểm trước nhiều những ý kiến trái chiều phản đối và không đồng tình về dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam, Quốc hội đã tổ chức gửi phiếu thăm dò ý kiến đại biểu về việc thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt cao tốc trước khi ra Nghị quyết chính thức về dự án này.

Bài báo có đoạn viết ” Mất quyền kiểm soát là tâm lý chung của nhiều đại biểu (ĐB) trong buổi thảo luận sửa đổi Nghị quyết 66 của Quốc hội (QH) về “các dự án, công trình quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền QH quyết định chủ trương đầu tư” ngày 14-6.

Tâm lý ấy cũng phản ánh những lo ngại của ĐB dân cử trước hàng loạt vấn đề hệ trọng: rừng bị tàn phá, buông lỏng việc cho nhà đầu tư ngoại thuê đất rừng nơi xung yếu, những siêu dự án chưa chắc chắn hiệu quả kinh tế-xã hội…”

Tuy trong đoạn dẫn trên Dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam không được gọi tên rõ ràng , nhưng dễ dàng bạn đọc đều hiểu rằng nó được nhắc tới trong cụm từ “những siêu dự án chưa chắc chắn hiệu quả kinh tế-xã hội…”. Trở lại tiêu đề “Quốc hội mất quyền kiểm soát các siêu dự án?”, thì một câu hỏi rộng hơn được đặt ra là “Thế Quốc hội có bao giờ có quyền kiểm soát thật sự hay không mà bảo bị mất?”

                       

Mặc dù về mặt văn bản pháp lý, Hiến pháp 1992 của Việt nam thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp được khẳng định tại điều 83 – Chương VI. Cơ quan này có trách nhiệm quan trọng trong việc lập và thông qua luật pháp, giám sát mọi chức năng của chính phủ và mọi hoạt động của Nhà nước. Nhưng tiếc rằng điều đó chỉ đúng khi tổ chức hệ thống chính trị của một thể chế chính trị Cộng hòa như Việt nam hiện nay, khi mà khái niệm tam quyền phân lập được xác lập, tức là các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp phải độc lập với nhau làm nền tảng.

Cần nhớ rằng hệ thống Tam quyền phân lập là một trong những vấn đề cốt lõi mang tính khác biệt giữa nhà nước dân chủ tư sản, dân chủ XHCN và các loại hình nhà nước trước nó như nhà nước phong kiến, nhà nước chiếm hữu nô lệ. Ở những nhà nước đó mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một vài cá nhân, chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Tam quyền phân lập là biện pháp phân chia quyền lực, chính là sự tồn tại độc lập, kiềm chế lẫn nhau giữa ba cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tổ chức song song với nhau, và qua đó kiểm tra, giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan nào có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của quốc gia.

Hệ thống tổ chức chính trị Việt nam hiện nay về danh nghĩa là một chế độ cộng hòa dân chủ, như quốc hiệu là Cộng hòa XHCN Việt nam, do đó việc tồn tại hệ thống tam quyền phân lập giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải hoạt động độc lập để giám sát lẫn nhau là điều bắt buộc phải có nhằm mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước là hết sức cần thiết.

Tiếc rằng trong điều kiện thực tế từ trước tới nay của Việt Nam, với Đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo, tam quyền phân lập không thể trở thành hiện thực. Cách tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo theo trục dọc với Đảng Cộng Sản giữ địa vị trên hết, không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện thường thấy. Hệ thống tam quyền phân lập ở Việt nam được biến thái thành tam quyền phân công bởi lý do lý thuyết xây dựng nhà nước của Việt nam vẫn mang nặng tư tưởng của học thuyết Marx – Lenin khác biệt với các lý thuyết xây dựng nhà nước dân chủ khác đang áp dụng trên toàn thế giới. Với những nhà nước dân chủ khác thì người ta gọi là nhà nước pháp quyền, còn ở Việt nam được gọi là nhà nước pháp quyền XHCN.

Đó chính là nguyên nhân và cũng là lý do tạo nên sự khác biệt giữa nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền XHCN. Với nhà nước pháp quyền thì lấy quyền lực pháp luật làm nền tảng duy nhất, còn nhà nước pháp quyền XHCN thì lấy pháp luật và XHCN làm nền tảng. Điều nguy hiểm nhất ở đây là trong nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng cộng sản là chính đảng duy nhất đồng thời là người lãnh đạo cả ba nhánh quyền lực, là người điều phối, phân công  và bổ nhiệm nhân sự các nhánh quyền lực.

Đảng lãnh đạo cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là kẽ hở tạo điều kiện cho đảng đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Một khi đảng CSVN đứng trên luật pháp thì ai có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của đảng và khi đảng sai trái thì cơ quan hay cá nhân nào có quyền xử lý? Điều đó cho thấy đặc quyền đứng trên luật pháp của một số lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN không khác gì đặc quyền dành cho mấy ông vua ở các quốc gia phong kiến.

Đó chính là lý do vì sao Quốc hội Việt nam chỉ được coi là một cơ quan dùng để phê chuẩn mang tính hình thức các chủ trương chính sách của đảng cộng sản Việt nam ban hành. Tuy nhiên những năm gần đây hoạt động của Quốc hội đã có ít nhiều biểu hiện dân chủ mang tính hình thức hơn, các đại biểu Quốc hội được bật đèn xanh cho thảo luận sôi nổi với các ý kiến trái chiều nhiều hơn, nhưng thực chất đó chỉ là màn diễn của các kép diễn nghị gật để làm trò nhằm che mắt dư luận trong  nước và quốc tế.

Cái cơ bản nhất, Quốc hội vẫn là đối tượng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đảng CSVN, với bằng chứng cụ thể là có hơn 90% đại biểu quốc hội là đảng viên. Số còn lại dù không phải là đảng viên, nhưng vẫn phải được chính quyền nhà nước của đảng CSVN thông qua mới có thể tham gia tranh cử vào Quốc Hội trong một cuộc bầu cử mang tính hình thức, thiếu công khai và công bằng. Mọi nhân sự và danh sách đại biểu Quốc hội đã được Ban Tổ chức trung ương Đảng CSVN ấn định sẵn trước ngày bầu cử.

                      

Dùng khoản NS hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc.

Qua đó để thấy rằng, đại biểu Quốc hội của Việt nam chúng ta hôm nay chỉ là cá hình nộm biết ăn, biết nói như con người chứ không hề có một chút quyền lực đáng kể nào. Người ta (đảng CSVN) không hề có ý nghĩ quan tâm đến ý kiến trái chiều của các đại biểu Quốc hội để xem xét, mà mọi quyết định, mọi chủ trương lớn hay các dự luật đều được đảng CSVN chính thức quyết định trước khi đưa ra bàn thảo tại Quốc hội. Bằng chứng cụ thể là dự án khai thác bauxite Tây nguyên năm 2009 và gần đây nhất là Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam là những minh chứng hùng hồn, qua hai dự án trên đã cho thấy đằng sau hậu trường đảng CSVN đã chuẩn bị đầy đủ các phương án triển khai dự án ở mức chi tiết nhất để có thể triển khai tiến hành ngay, bất cứ có sự đồng thuận hay không đồng thuận của các đại biểu Quốc hội.

Một khi tổ chức hệ thống chính trị vãn theo chiều dọc,  với Đảng cộng nản giữ địa vị trên hết, đảng đứng trên và đứng ngoài pháp luật không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện thường thấy phổ biến hiện nay thì việc có tồn tại hay không có Quốc hội cũng chỉ mang tính hình thức và có giá trị như nhau. Nhưng một điều chắc chắn, nếu không có khoảng vài trăm cái hình nộm làm vai trò của mấy ông bà nghị gật thì hàng năm cũng chi tiêu hết một số lượng tiền bạc đáng kể bằng tiền thuế của người dân.

Đã đến lúc, người dân Việt nam chúng ta cần thực tế hơn, cần xét tới việc có nên có Quốc hội tồn tại nữa hay không? Sao không để 15 đồng chí đỉnh cao trí tuệ trong Bộ Chính trị làm các việc cai trị dân chúng như thời phong kiến hay chế độ chiếm hữu nô lệ trước kia họ vẫn làm. Luật pháp hay các vấn đề lớn của đất nước thì các đồng chí thích làm gì thì cứ tự nhiên, các đồng chí cứ ban hành  và quyết định theo ý đảng, cần gì để ai bàn thảo và quyết định thông qua cho mất thì giờ, vì có bao giờ ý kiến của đảng đưa ra mà không được chấp thuận hay bị phản đối đâu. Toàn thể nhân dân Việt nam xin tự nguyện “sống cũng như như chết rồi” để các đồng chí được tự nhiên lãnh đạo đất nước theo ý đảng.

Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết đinh đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa như thời thực dân Pháp đô hộ hay thời Mỹ ngụy họ đã từng làm có lẽ tốt hơn. Không lẽ cứ nói chế độ ta tươi đẹp hơn, vì dân hơn mà sao không bằng họ đã từng làm trước kia?

Bởi có hay không có Quốc hội thì kết quả nó vẫn như rứa mà thôi, nếu có Quốc hội chỉ là hình thức thì xét ra không có có khi lại là điều tốt hơn, hiệu quả kinh tế hơn. Trong dự án sử đổi Hiến pháp sắp tới, nội dung này nên được đưa ra xem xét và quyết định một cách nghiêm túc vì nó sẽ giải quyết được nhiều vướng mắc trong hiện tại và tương lai.

15/6/2010

———-
Ghi chú:
[*]http://phapluattp.vn/20100615121344222p0c1013/quoc-hoi-mat-quyen-kiem-soat-cac-sieu-du-an.htm

© Kami 2010

31 responses to this post.

  1. Posted by Choi Tran on 15.06.2010 at 13:26

    Câu hỏi thế thì bố ai dám trả lời. AI cũng biết là đảng chỉ định đại biểu quốc hội. Đảng bảo đại biểu bấm nút cái nào thì bấm. Không nghe là đi về giặt quần áo cho vợ con là phúc. Ú ớ là rũ tù.

    Thôi thì đành “ờ nhỉ” cho qua chuyện. Không khép lại rũ tù.

    Trả lời

  2. Posted by NGUYEN LAM on 15.06.2010 at 13:46

    Thì Quốc Hội “Làm thinh, làm biếng, làm ngơ,” chứ còn làm gì bây giờ.

    Đại biểu của đơn vị mà dân trong đơn vị còn không biết là ai nữa thì hỏi còn làm gì đuợc.

    Tôi chỉ biết tên công an khu vực, truờng và phó công an phừờng, trưởng và phó công an quận cũng như thành phố. Ngòai ra chẳng còn biết ai hết.

    Trả lời

  3. […] Đảng đã lãnh đạo thì Quốc hội có để làm gì? ( Kami […]

    Trả lời

  4. […] Trong bài viết gần đây nhất blogger Kami đề cập tới bài viết “Quốc hội mất quyền kiểm soát các siêu dự án?” trên trang báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, và đưa ra câu hỏi liệu Quốc hội đã bao giờ có quyền kiểm soát thật sự hay không mà nay bảo bị mất? […]

    Trả lời

  5. […] [*]http://phapluattp.vn/20100615121344222p0c1013/quoc-hoi-mat-quyen-kiem-soat-cac-sieu-du-an.htm […]

    Trả lời

  6. Posted by luan on 15.06.2010 at 23:35

    hay qua anh oi ( chi oi)!

    Trả lời

  7. Posted by U.50 on 16.06.2010 at 00:25

    Bộ chính trị gồm những khuôn mặt giàu nhất nước và chỉ số IQ cao lộn ngược nhất nước 🙂

    Trả lời

  8. Posted by U.50 on 16.06.2010 at 00:26

    “ Có 5 nguy cơ sẽ bị mất nước:

    Một là: Sĩ phu, Thức giả ngoảnh mặt đi trước thời cuộc.

    Hai là: Xã tắc tham nhũng tràn lan.

    Ba là: Binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa.

    Bốn là: Học trò không kính trọng thầy giáo.

    Năm là: Trẻ con khinh thường người già”.

    Trả lời

  9. Đảng lãnh đạo thì “Cuốc hội” làm làm mịa gì cho mệt!

    Trả lời

  10. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  11. […] “Đỗ la mot Viec Lam thức thiết So sánh hiệu quả có Giá , bỏ cơ quan khong CÁC Cần thiết So sánh mang tính hình thức Như Quốc HỘI la hợp lòng Dân chung . Quyết Định độ Chắc chan se được Toàn Nhân Dân Ủng hộ nhiệt liệt , hay khoan dung sách Ngân hàng danh Năm HỘI Quốc cho hàng ngàn đồng ty đề Mở So sánh có thể duy Trì cái nhà thương làm phúc , đế chữa bệnh cho Người nghèo So sánh Người già khong noi nương Tủa… “ (Việt Nam : Đang Đa lanh Đạo thi quoc hoi có đế lam gi ?) […]

    Trả lời

  12. […] “Đỗ la mot Viec Lam thức thiết So sánh hiệu quả có Giá , bỏ cơ quan khong CÁC Cần thiết So sánh mang tính hình thức Như Quốc HỘI la hợp lòng Dân chung . Quyết Định độ Chắc chan se được Toàn Nhân Dân Ủng hộ nhiệt liệt , hay khoan dung sách Ngân hàng danh Năm HỘI Quốc cho hàng ngàn đồng ty đề Mở So sánh có thể duy Trì cái nhà thương làm phúc , đế chữa bệnh cho Người nghèo So sánh Người già khong noi nương Tủa… “ (Việt Nam : Đang Đa lanh Đạo thi quoc hoi có đế lam gi ?) […]

    Trả lời

  13. […] “Đỗ la mot Viec Lam thức thiết So sánh hiệu quả có Giá , bỏ cơ quan khong CÁC Cần thiết So sánh mang tính hình thức Như Quốc HỘI la hợp lòng Dân chung . Quyết Định độ Chắc chan se được Toàn Nhân Dân Ủng hộ nhiệt liệt , hay khoan dung sách Ngân hàng danh Năm HỘI Quốc cho hàng ngàn đồng ty đề Mở So sánh có thể duy Trì cái nhà thương làm phúc , đế chữa bệnh cho Người nghèo So sánh Người già khong noi nương Tủa… “ (Việt Nam : Đang Đa lanh Đạo thi quoc hoi có đế lam gi ?) […]

    Trả lời

  14. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  15. […] …. “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  16. […] …. “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  17. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  18. Posted by trang on 26.07.2010 at 02:34

    nguoi vn rat thuc dung, neu thay dau tranh cho tu do dan chu co loi cho ho thi tu ho se theo thoi, khong can phai ho hao.

    Trả lời

  19. Posted by SonHong on 26.07.2010 at 02:37

    tac gia đòi nước ta phải thực hiện tam quyền phân lập , đòi Đảng không được lãnh đạo cả ba ngành lập pháp , hành pháp và tư pháp , đồng thời riễu rằng QH chỉ là hình nộn , là thừa , nên cắt bỏ cho khỏi lãng phí tiền bạc của nhân dân !
    Cũng là quan tâm đến nền dân chủ ở VN , nhưng quan tâm kiểu đó là thiếu xây dựng , đầy tính kích động khi nói rằng :”Có QH chỉ là tiếp tục lãng phí , tốn kém hàng ngàn tỉ đồng ngân sách hàng năm.”. Bề ngoài đòi giải tán QH , nhưng thực chất là đòi thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng .
    Trước hết , cần phải nói ngay rằng DCSVN , Chính phủ cùng nhân dân VN đã từng tự chỉ trích về tình trạng thiếu dân chủ , tình trạng dân chủ hình thức ở một số nơi , một số mặt , thậm chí ngay cả ở trong Đảng . Nhưng đó là cục bộ , chứ không phải toàn bộ , là hiện tượng nhất thời chứ không phải là bản chất , phổ biến . ở đây đòi hỏi một phương pháp nhận thức biện chứng , lịch sử, khách quan .
    Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đa số , mà số đông là nhân dân lao động . Đó là nền dân chủ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử , nhất là nhân dân ta cũng chưa trải qua cả nên dân chủ tư sản ( cho dù dân chủ tư sản là dân chủ của thiểu số ) , cho nên phải mò mẫm , tìm tòi những hình thức , cơ chế , cách thức để thể hiện , để thực hiện nền dân chủ của đa số thì cũng là điều dễ hiểu , và nếu có thiếu sót gì thì cũng là điều dễ hiểu . Mấy năm nay , QH ta đã có nhiều cải tiến để khắc phục tính hình thức , như quyết định nhiều luật hơn , quyết định nhiều chủ trương quan trọng liên quan đến quốc gia đại sự hơn , chất vấn các thành viên Chính phủ nhiều hơn , lắng nghe Mặt trận Tổ quốc tổng hợp ý kiến của cử tri , đang tích cực thực hiện chức năng giám sát tối cao nhiều hơn , …Trong thực tiễn cho thấy có hai hình thức dân chủ : Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện . QH ta là đại diện cho nhân dân cả nước ( chứ không chỉ là đại diện cho một thiếu số nào ), phải thể hiện nơi quyền lực tối cao của nhân dân , thể hiện nhà nước ta là kiểu nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân . Như thế không nên và không thể nói khích bác , nói riễu cợt , nói kích động rằng xóa bỏ QH . Vấn đề đặt ra một cách nghiêm túc phải là tiếp tục cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng , cải tiến nội dung và hình thức sinh hoạt của QH để khắc phục tình trạng dân chủ hình thức một cách tích cực và có hiệu quả nhiều hơn nữa .
    Và cũng thật rõ ràng , dễ hiểu , không thể khuyên DCSVN bỏ quyền lãnh đạo thống nhất tam quyền lập pháp , hành pháp , tư pháp . Nhà nước ta thì không chỉ là Chính phủ hay QH , không chỉ là Chủ tịch nước hay Viện kiểm soát , Tòa án tối cao , mà là tất cả các tổ chức đó từ trên xuống dưới , nghĩa là Nhà nước gồm tất cả các cơ quan lập pháp , hành pháp và tư pháp . DCSVN lãnh đạo toàn xã hội chủ yếu bằng nhà nước , thông qua nhà nước , nếu không như vậy thì chẳng lãnh đạo ai và chẳng lãnh đạo gì . Nhà nước ta là nhà nước của dân , do dân , vì dân , mọi quyền lực thuộc về nhân dân , vì thế cả quyền lập pháp , hành pháp , tư pháp đều phải thể hiện quyền lực của nhân dân , đều phải thể hiện ý chí , nguyện vọng và lợi ích của nhân dân , chứ không thể nói tam quyền phân lập như trong chế độ dân chủ tư sản . Chính phủ không chỉ thực hiện hành pháp mà còn tham gia nhiều dự án luật và sửa đổi luật , ban hành nhiều quy định dưới luật có tính bắt buộc công dân thực hiện . QH không chỉ lập pháp mà còn lập cả cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp . Cơ quan tư pháp giám sát cả cơ quan hành pháp và cũng chịu sự giám sát của cơ quan lập pháp ,.. v..v. Nhà nước ta đã không thể tam quyền phân lập , thì Đảng lãnh đạo nhà nước càng không thể không thống nhất lãnh đạo tất cả tam quyền , tất cả các cơ quan lập pháp , hành pháp và tư pháp .
    Đảng lãnh đạo QH nhưng phải luôn luôn lắng nghe QH , đó là hai mặt liên quan hữu cơ , chứ không phải đối lập , nhằm thực hiện đúng đắn lợi ích của nhân dân . Đảng lãnh đạo việc xây dựng pháp luật , nhưng tất cả các Tổ chức Đảng và đảng viên phải sống và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật , là hai mặt thống nhất chứ không phải đối lập , nhằm đảm bảo ý chí , nguyện vọng , lợi ích của nhân dân đồng thời nêu gương thực hiện . Mấy năm qua , những đảng viên tham nhũng thì không chỉ bị kỉ luật của Đảng mà còn bị pháp luật trừng trị . Thiết nghĩ điều đó ai cũng biết . Nói Đảng đứng trên pháp luật , đứng ngoài pháp luật thì chỉ là xuyên tạc , bịa đặt . DCSVN không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân , của dân tộc . Vấn đề là một đảng duy nhất lãnh đạo , đa số đại biểu QH là đảng viên , thì Đảng phải ra sức đổi mới , cải tiến phương thức lãnh đạo sao cho thực sự dân chủ , tránh dân chủ hình thức . Chúng ta đang tìm tòi hình thức , cơ chế tốt để đảng viên vừa phản ánh được vai trò lãnh đạo của Đảng lại vừa phản ánh được ý chí , nguyện vọng của cử tri . Đây vẫn đang có tính thời sự trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và đổi mới sinh hoạt của QH . Chúng ta phải tổng kết thực tiễn , tìm tòi những hình thức , cơ chế thích hợp và tất cả công dân đều có thể và cần phải đóng góp ý kiến một cách xây dựng .

    Trả lời

  20. Posted by Gui bac Kami on 27.07.2010 at 02:00

    Cháu xin kính chào bác Kami!
    Cháu là Trần Anh Dũng, sinh viên năm cuối của trường Đại học Nông Nghiệp. Hôm nay cháu mạnh dạn viết mấy dòng vào phần phản hồi dưới bài viết của bác vì chấu thực sự thấy bối rối, cháu đã không biết phải tin ai, nghe ai trong khi thông tin thật hỗn loạn. Tuy cháu là sinh viện năm cuối nhưng cháu vẫn chưa thành thạo internet cho lắm, nên rất có thể những dòng cháu viết ở đây chưa chắc đã đến được với bác. Dù sao cháu cũng hi vọng mọi việc được suôn sẻ.
    Thưa bác, gần đây cháu mới bắt đầu đọc những bài phản biện của bác cũng như của một số trí thức học giả trong nước là bởi vì cháu tò mò sau sự xuất hiện một email nặc danh gửi đến hộp thư của cháu. Nội dung thư là chụp mũ, gán ghép cho các trí thức đang phản biện trên internet là phản động…. Thú thực với bác rằng, nhờ có bức email ấy mà cháu mới tìm đọc, mới tra cứu để xem Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn thế Hùng, Trần Thanh Vân, Cù Huy Hà Vũ … là ai? Sau một thời gian ngắn cháu đã thay đổi hẳn nhận thức của mình. Khi cháu nhận được bức email nặc danh đó cháu đã rất căm phẫn mấy ông trí thức mà người ta nói là nửa mùa có nêu tên ở trên. Nhưng càng tìm hiểu, càng quan tâm tìm đọc thì cháu càng nhận ra rằng, đất nước ta đang cần,rất cần có những trái tim như vậy. Vừa mới hôm qua cháu mới đọc được mấy bài viết của bác, cháu đã cảm nhận được phần nào tình cảm của bác dành cho nhân dân VN. Cháu thành tâm cầu chúc bác mạnh khoẻ và sẽ tiếp tục đóng góp những ý kiến, chia sẻ những thông tin đa chiều để thế hệ trẻ như cháu có cơ hội mở mang kiến thức và đóng góp vào công cuộc chung cho đất nước trong giai đoạn cực kỳ nguy khốn hiện nay. Nhân đây, cháu xin được coppy toàn bộ nội dung bức thư nặc danh đã tuyên truyền xuyên tạc đến email của cháu với ước mong bác “mổ sẻ”, vạch mặt bọn xấu. Dù sao thì lúc này cháu cũng cảm ơn kẻ đã gửi cho cháu bức thư nặc danh đó, vì nhờ có nó mà cháu mới quan tâm, nhờ có nó mà cháu mới cất công tìm đọc bằng được những bài viết của các “trí thức nửa mùa”.
    Cuối cùng, cháu hi vọng sẽ được lắng nghe và tiếp thu những chỉ bảo của bác.
    Cháu Trần Anh Dũng

    Dưới đây là nội dung bức thư nặc danh gửi đến email của cháu:

    phutho1234 tới tôi, van.oikos, xuandiencatru, xuyen9610446, bauxitevn, bthuy.dinh, huy.hoangtuan, baotoanartcera., dragonthlong75, daomaitrang, havulaw, dunglytruc, vdtoanll, phamtranquan_74, phonguyenhong, phanphuongdong, hoasidong, lanhuong75, lebach, lelangluong
    hiển thị chi tiết 29 / 6

    Mọi người ơi, gần đây có tin đồn là bà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã từng bị mời “đi làm việc” nhiều lần vì bà đã có những phát ngôn làm hoang mang quần chúng về sự không sáng suốt của lãnh đạo VN và những biến động chính trị sắp tới. Người ta cũng nghi ngờ bà ta là một nhân vật cao cấp của một Đảng bị cấm hoạt động trong nước. Sau khi điều tra và có một số sức ép “vô hình” khiến bà được cơ quan An ninh cho toại ngoại. Tuy nhiên, đại hội Đảng đang đến gần, vấn đề đặt ra là cần làm gì đó để cảnh cáo hay răn đe quần chúng để Đại Hội có thể diễn ra tốt đẹp. Vì vậy, thời gian tới sẽ tiếp tục có những hành động mạnh để trấn áp bọn phản động, tránh tình trạng hỗn loạn trong dịp dại hội Đảng của chúng ta. Những mục tiêu, những đối tượng cần phải đấu tranh lại là mấy ông trí thức nửa mùa như Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng, Cù Huy Hà Vũ, Hà Văn Thinh, Trần Thanh Vân, v.v… và những người ủng hộ trang bauxite Việt Nam. Đã có nhiều nguồn tin cho rằng chính Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện là một tên phản động dấu mặt, hắn đã viết bài bôi nhọ Truyện Kiều, bôi nhọ thanh danh của Đảng ta qua loạt bài: “Giải Mã Sấm Kiều”, “Sinh viên với sứ Mệnh Lich Sử”, “Ai là Kẻ Khẩu Phật Tâm Xà”, Vi Hiến Tất Biến”, v.v… nhằm kích động quần chúng, hiện những bài này vẫn đang tồn tại trên google.com.

    – Ẩn nội dung trích dẫn-
    Hãy cùng nhau Đả Đảo Bọn Trí Thức Nửa Mùa, Đả Đảo Bọn Phản Động!
    Nếu là người VN yêu nước hãy chuyển tiếp búc thư này đến với bất kỳ ai bằng bất kỳ hình thức nào.
    http://bantinviet.multiply.com/journal/item/2

    Join today to get your own Multiply site
    Bản Tin Việt 24h
    HomeNotesBlogVideoLinks
    Giải mã sấm KiềuAug 24, ’09 4:32 AM
    for everyone
    – Show quoted text –
    Lý Công Bằng – ĐDCND

    Xưa nay người ta mới chỉ đánh giá Truyện Kiều của Nguyễn Du ở góc độ thuần tuý văn học với bút lực tài tình, “tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt”, “khiến ai đọc cũng phải ngậm ngùi thấm thía như đứt ruột” (Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân)…, chứ chưa có ai đưa ra quan điểm khẳng định: đây là một áng “Văn Thần, Thi Sấm” vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

    Tuy vậy, từ lâu Bói Kiều đã được dân gian ta truyền tụng cho nhau và trở thành một nét văn hoá, nâng đỡ, nuôi dưỡng tinh thần của biết bao con người khi lâm vào cơn bĩ cực. Nét văn hoá ấy đến từ đâu? Có phải ngẫu nhiên người ta lại chọn những câu trong Truyện Kiều làm lời giải cho những chuyện lành giữ của cuộc đời mình? Chắc chắn không phải vậy! Truyện Kiều tự thân nó có một sức mạnh huyền bí và hấp dẫn riêng, trong khi các tác phẩm văn học khác thì không hề có được điều này. Mặc dù vậy, người ta cũng mới dừng lại ở chỗ đánh giá và tin tưởng rằng, nếu thành tâm, Kiều có thể cho người ta biết tình thế hiện tại, tương lai của chính cá nhân mình mà thôi. Chỉ có vậy thì chưa đủ và chưa đúng tầm của Truyện Kiều. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học kiệt xuất của thế gian mà hơn thế nữa, đó là một “áng văn thần, thi sấm của dân tộc Việt Nam”; mượn câu chuyện tình bi ai và số phận người đàn bà dưới thời phong kiến mà đưa ra lời báo trước những sự việc, những biến cố lớn lao của nước nhà trong suốt cả ngàn năm. Không những thế Nguyễn Du cũng tiên đoán nhiều vấn đề lớn của nhân loại thông qua tác phẩm bất hủ này. Thật đúng là bậc “Thánh Tiên, Thần Văn”!

    Thực ra, trước đây tôi đã từng nghe người ta nói về một vài trường hợp mà họ cho là trùng khớp ngẫu nhiên của Truyện Kiều, nhưng đến nay, sau khi đã nghiên cứu nghiêm túc thì tôi chắc chắn đây không phải ngẫu nhiên, mà trái lại nó hoàn toàn là chủ ý của tác giả. Mọi việc trên đời dường như đã được Nguyễn Du biết trước và gửi gắm một cách tinh tế những thông điệp ấy qua kiệt tác văn học của chính mình.

    Ví dụ ở câu thứ 83 trong tổng số 3254 câu Kiều là lời khóc than, thương cho số phận người đàn bà như: “Đau đớn thay phận đàn bà”. Rõ ràng chúng ta thấy, ngày Quốc tế Phụ nữ mà nhân loại hàng năm kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã và đang kỷ niệm là ngày 8 tháng 3. Hoặc câu thứ 200 viết rằng: “Mà sao trong sổ đoạn trường có tên” cũng làm chúng ta buộc phải suy nghẫm đến khả năng Nguyễn Du đã biết trước được tương lai của mình. Bởi vì, năm 1965 vừa đúng 200 năm sau năm sinh của tác giả thì UNESCO đã công nhận ông là Danh nhân Văn hoá Thế giới. Hơn thế nữa, từ năm 1765 – năm sinh của ông, tính đến nay năm 2009 vừa đủ 244 năm thì câu thứ 244 lại là: “Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong”. Điều này hoàn toàn có thể là lời thách đố của Nguyễn Du dành cho hậu thế để tìm hiểu ngụ ý đích thực của ông khi viết Đoạn Trường Tân Thanh.

    Người ta vẫn chưa tìm ra năm Nguyễn Du viết Truyện Kiều vào năm nào, tuy nhiên, bằng trực cảm tâm linh tôi tin rằng ông viết Kiều vào năm 1805 và câu thứ 1805 ta thấy: “Bước ra một bước một dừng”. Có lẽ ngụ ý của tác giả chính là “Viết ra một viết một dừng” (tức ông viết không liền mạch). Kể từ năm ông viết Truyện Kiều đến nay (1805 – 2009) vừa đủ 204 năm và chúng ta thấy ngay câu Kiều thứ 204 như sau: “Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời”. Không biết bút hoa ở đây là bút của ai, nhưng tôi tin chắc, chúng ta sẽ được đón nhận sự tô điểm đầy bất ngờ, làm tăng thêm cho giá trị của kiệt tác vốn đã lừng danh thế giới này.

    Truyện Kiều mở đầu bằng bốn câu thơ có tính khái quát nhân tình thế thái. Tuy nhiên, bốn câu thơ ấy cũng là những lời tổng quát chung nhất của lịch sử Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến nay.

    1..Trăm năm trong cõi người ta,
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
    Trải qua một cuộc bể dâu,
    4.Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

    Xin hãy bình tĩnh và suy nghẫm từng câu một của Nguyễn Du:
    Câu thứ nhất viết: “Trăm năm trong cõi người ta”, ở đây ngụ ý của tác giả muốn nói rằng, đất nước ta sẽ trải qua trăm năm trong cõi của nước khác, và sự thật lịch sử đã chứng minh, khoảng giữa thế kỷ 19 triều Nguyễn suy yếu và Việt Nam biến thành thuộc địa của thực dân Pháp ngót trăm năm sau đó.

    Sau ngót trăm năm Pháp thuộc nhân dân ta lại dành được chính quyền, nhưng tiếc rằng lúc này thế thời đã không chiều lòng quân tử. Trong khi đó, những kẻ tiểu nhân và lòng dạ hẹp hòi thì lại đắc mệnh đế vương và lãnh đạo đất nước. Những người có tài, có đức, có thể giúp nhân dân khắc phục đói nghèo, lạc hậu thì lại bạc mệnh và bị bè lũ gian tham, độc ác hãm hại. Chính vì điều này mà câu thơ thứ hai của Truyện Kiều tựa như lời an ủi những đấng anh tài mệnh bạc: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.

    Do những kẻ tham tàn lãnh đạo đất nước nên nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh lầm than, thua kém các nước khác. Cảnh bất công, ngang trái, đói nghèo, mất nhân quyền là “đặc sản” suốt một thời gian dài của nhân dân sống trên dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương này. “Trải qua một cuộc bể dâu” là câu thơ thứ 3 và tự nó ít nhiều đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn thực tế trên.

    Câu thơ thứ 4 trong Truyện Kiều có viết: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Đọc như vậy khiến nhiều người đặt câu hỏi, những điều ở đây là những điều gì? Phải chăng là những điều Nguyễn Du đã chứng kiến, đã nhìn thấy? Điều ấy đương nhiên là đúng. Tuy vậy, hãy đi tìm hiểu ngụ ý của tác giả khi biết rằng, ông mượn chuyện quá khứ để báo trước chuyện tương lai thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn.

    Những năm gần đây, các nhà lãnh đạo đất nước ta (ĐCSVN) mỗi lúc một công nhiên tước đoạt nhân quyền, đàn áp nhân dân và ngày càng thể hiện rõ bản chất độc đoán, chuyên quyền của họ. Điều 4 trong bản Hiến Pháp năm 1992 của nước ta đã thể hiện đậm nét nhất bản chất trên. Nội dung Điều 4 như sau: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

    Tự thân Điều 4 của bản Hiến pháp năm 1992 đã phá huỷ nền tảng của của chính bản Hiến pháp ấy. Điều 4 này đã mâu thuẫn và chống lại Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 15, Điều 16, Điều 21, Điều 50, Điều 83 và nhiều Điều khác nữa. Để chứng minh cho những phi lý trên thì không khó khăn gì, tuy nhiên, nếu người đọc quan tâm có thể tra cứu trên internet sẽ thấy rất nhiều người đã và đang lên án gay gắt, đòi huỷ bỏ Điều 4 để thúc đẩy đất nước. Trong khi đó, ông chủ tịch nước “đáng kính” – Nguyễn Minh Triết của chúng ta lại phát biểu “bỏ Điều 4 là tự sát”. Tại sao lại là tự sát? Phải chăng chính các lãnh đạo cũng hiểu được rằng lòng dân ngày nay không phục đảng Cộng sản, và nếu để đảng Cộng sản sống trong vòng cạnh tranh công bằng với các đảng phái đối lập khác đang từng bước phát triển thì đảng Cộng sản sẽ chết??? Như vậy, câu thơ thứ tư: “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” thì điều trước tiên phải kể đến ở đây là Điều 4 của bản Hiến pháp 1992.

    Ngoài ra, điều trông thấy cũng không kém phần đau đớn đó là Điều 69 của chính bản Hiến pháp hiện hành nước ta. Nội dung của Điều này là: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Thực ra, đây là một cái bánh vẽ mà đảng Cộng sản Việt Nam vẽ ra chứ không ai được “ăn” nó. Nó tráo trở giống hệt như con số 6 và con số 9 của Điều này vậy. Phần đầu của Điều 69 thì nói rằng công dân có quyền,…v.v…, nhưng đến cuối Điều 69 thì lộn ngược trở lại rằng theo quy định của pháp luật – thế là hết! Như chúng ta thấy, Hiến pháp ghi rằng công dân có quyền biểu tình, quyền được thông tin …. nhưng cho đến lúc này thì luật biểu tình cũng chưa có, luật tiếp cận thông tin cũng chưa xong v.v… Mà cho dù nó có hoàn tất đi chăng nữa thì những quyền đích thực của con người vẫn không được đáp ứng. Bởi vì, đời thủa nào đã đến mức không thể chịu nổi phải biểu tình (biểu lộ tình cảm), đình công (dừng công việc, hay nghỉ làm) lại phải xin phép và được đồng ý bao giờ? Thật vớ vẩn hết chỗ nói!

    Chưa hết, điều rất đau lòng nữa mà chúng ta thấy đó là Điều 88 của Bộ luật Hình sự – một Điều luật có những khái niệm rất mơ hồ, nên đã tạo cơ hội cho các cơ quan thi hành pháp luật tuỳ tiện hay độc đoán, khiến cho việc áp dụng luật pháp không còn nghiêm minh. Theo Điều này, tội phạm sẽ bao gồm những người có các hành vi: Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây thực sự là một điều đau lòng, khiến nhiều con dân Việt Nam vì mong mỏi sự phát triển cho đất nước, vì mong mỏi nhân dân được hưởng những quyền lợi thiêng liêng và cơ bản của mình mà không ngại ngần nói ra sự thật để rồi bị đảng Cộng sản vu cho là xuyên tạc, phỉ báng, bịa đặt…v.v… Chính vì thế mà Điều 88 Bộ luật Hình sự trở thành biểu tượng đích thực của 2 cái còng số 8 khoá chặt cả chân, lẫn tay của các nhà đấu tranh cho dân chủ và một Việt Nam phát triển. Đau đớn thay!

    Năm câu thơ tiếp theo của Truyện Kiều là lời báo trước về những biến cố lớn lao đã âm ỉ và sẽ xảy ra trong một hay vài năm tới đây.
    5.. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
    Cảo thơm lần giở trước đèn,
    Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
    9.Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,

    Câu thơ thứ 5 ghi: “lạ gì bỉ sắc tư phong”. Nếu hiểu “ bỉ sắc tư phong” theo chữ Nôm thì có nghĩa là người được dồi dào về tài sắc thì kém cỏi về số mệnh, nhưng đó chỉ là cách hiểu thông thường chứ chưa phải là cái ẩn ý mà Nguyễn Du dấu kín trong đó. Xin được tiết lộ một chút về điều này vì thời điểm cũng đã đến rất gần. “Bỉ” là đọc chệch của “bí”, mà “bí” cũng có nghĩa là “bí mật”. Ẩn ý ở đây chỉ trong 2 chữ “sắc” và “phong”. Không ai biết có chuyện “sắc phong” này, nhưng với Nguyễn Du thì biết rất rõ về sắc phong bí mật của Vua Cha Bát Hải dành cho ai đó, khi mà những “điều đau lòng” đã xảy ra. Vì thế câu thứ 5 cần được hiểu theo nghĩa: “lạ gì mật sắc riêng phong” mới là ngụ ý chính của ông.

    Câu thơ thứ 6 có viết: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Nếu hiểu thông thường thì có nghĩa là tạo hoá hay ghen ghét người đẹp. Tuy nhiên, ở góc độ giải mã câu thần của Nguyễn Du, hay ở góc độ hưởng ứng lời thách đố của tác giả “Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong” (câu thứ 244 ứng vào năm 2009) thì ý nghĩa của nó khác đi rất nhiều. Đánh ghen ở đây cần phải được hiểu là sự trả đũa của người đã bị lợi dụng, bị lừa dối và bị bội bạc về tình. Trong trường hợp này cần hiểu tình là tình đồng bào hay tình người. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ hơn ở câu thứ 1945: “Đã cam chịu bạc với tình” (năm 1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nhân dân ta đã đồng lòng, nhất chí dưới sự lãnh đạo và chèo lái của những người theo chủ nghĩa cộng sản và cũng có nghĩa là nhân dân ta đã cam chịu, hay đã chấp nhận sự bội bạc của đảng Cộng Sản Việt Nam về sau).

    Để rõ hơn ý nghĩa của câu thứ 6 ta nên tham khảo câu Kiều thứ 1874 rằng: “Máu ghen đâu có lạ gì mà ghen”. Ở đây ta bắt gặp ông dùng tù “ghen” để ngụ ý đến cuộc nổi dậy của Trần Tấn, Đặng Như Mai chống lại triều đình Huế thoả hiệp với giặc Pháp và khởi nghĩa Văn thân Nghệ Tĩnh năm 1874.

    Như vậy, ngụ ý của tác giả trong câu thứ 6 muốn nói rằng: sẽ có sự giúp đỡ, vạch đường, chỉ lối của Trời cao giúp nhân dân ta vùng dậy, đấu tranh với thế lực đã lợi dụng tín nhiệm, lừa dối, và phản bội lại quyền lợi của nhân dân v.v…

    Câu thơ thứ 7: “Cảo thơm lần giở trước đèn” là nói đến tờ giấy thơm nào đó được đặt trước một ngọn đèn thiêng, có chứa đựng nội dung kể tội đảng Cộng sản và nguyện vọng xây dựng một nhà nước Pháp quyền văn minh và cường thịnh.
    Câu thơ thứ 8: “Phong tình cổ lục lưu truyền sử xanh”, tức là sau này người ta sẽ tìm ra tờ giấy bí mật trên và lưu truyền mãi mãi câu truyện này.
    Câu thơ thứ 9: “Vào năm Gia Tĩnh triều Minh”, là lời báo trước thời điểm bắt đầu xảy ra biến cố chính trị lớn của nước ta do nhân dân vùng dậy vào năm Gia Tĩnh của triều đại Hồ Chí Minh. Vậy năm Gia Tĩnh ở đây là năm nào? Nếu theo cách hiểu thông thường thì Gia Tĩnh là Niên hiệu của vua Thế Tông nhà Minh. Nhưng ngụ ý của Nguyễn Du thì không đơn giản là vậy. Ông muốn gợi ý cho hậu thế biết đến 2 chữ Thế Tông và chữ Minh mà thôi. Chữ Minh thì là Hồ Chí Minh, còn chữ Thế Tông là cách nói và viết ngược của chữ Thống Tê (Thống Tê = Tê Thống). Thống Tê hay Tê Thống có nghĩa là chữ Tê làm đầu (Tê = T). Như vậy, chủ ý đích thực của tác giả là vào năm nào của triều đại Hồ Chí Minh mà những vấn đề nổi bật, tên tuổi nổi bật có chữ T làm đầu thì là năm xảy ra biến động chính trị lớn. Đây sẽ là năm khởi đầu cho cuộc đấu tranh thắng lợi, giúp nhân dân dần thoát khỏi sự trà đạp, lừa mị, hay thác loạn của giai cấp thống trị (ĐCSVN) và xây dựng một đất nước Pháp quyền mà ở đó nhân quyền được bảo đảm v.v…

    Gần đây, trong dân gian có truyền tụng 2 câu lục bát bí ẩn mà nội dung hoàn toàn trùng khớp với ngụ ý của Nguyễn Du, xin được trích lại để người đọc tham khảo:

    “Bao giờ hội đủ chữ T
    Thượng tầng thất thế tạ tàn chẳng sai”

    Chúng ta hãy cùng nhau kiểm điểm xem thời điểm những năm gần đây đã xuất hiện những vẫn đề có chữ T làm đầu hay chưa. Xin thưa rằng: chữ T ngoài ý nghĩa là chữ “Thời” (trừu tượng) ra thì ở đây hoàn toàn có thể là chữ Tham (Tham nhũng mỗi lúc một gia tăng và Trằng Trợn), chữ Thổ (lãnh thổ bị xâm lấn do đảng Cộng sản nhượng bộ bán đất và biển cho Trung Quốc, chữ Thổ cũng có nghĩa là vấn đề đất cát với giá cao ngất trời; chuyện thu hồi ruộng đất của nông dân làm nhà máy xí nghiệp cũng khiến lòng dân không phục đảng CSVN), chữ Trường (Trường Sa đang nguy biến), chữ Tài (Tài chính khủng hoảng và trong chữ độc Tài Toàn Trị), chữ Tây (Tây nguyên với dự án Bauxite và trong chữ Hà Tây khi sáp nhập vào Hà Nội), chữ Thông (trong vấn đề giao Thông ùn Tắc), chữ Thầy Trò (Thầy không ra Thầy và Trò không ra Trò), chữ Tấm (một Tấm gương đạo đức giả tạo được che đậy, nay rất Tốn Tiền để vận động và học Tập), chữ Thừa (Thừa lao động), chữ Thiếu (Thiếu việc làm, Thiếu niềm Tin, Thiếu Tự do, đặc biệt là vấn đề tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo,…), chữ Thống (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khác với Giáo hội Phật giáo Việt Nam bởi chữ T = Thống nhất), chữ Thiên (trong chữ đạo Thiên chúa), chữ Thiên Tai (ngày càng nhiều dịch bệnh quái lạ xảy ra.

    Hiện tượng mưa lớn Thất Thường khiến nhân dân phải sống trong lụt lội vì nước dâng không thoát kịp. Hà Nội và Sài Gòn ngày càng dễ dàng bị lụt nếu chỉ cần trời đổ mưa lớn trong vòng 2 tiếng. Xin lưu ý, nước được gọi là Thuỷ (T)), chữ Thái (trong vụ lình sình giáo xứ Thái hà – một mâu thuẫn khó có thể hàn gắn thể hiện rõ bản chất đen tối và hủ bại của đảng Cộng sản Việt Nam), chữ Trống (trong vụ vườn hoa Hàng Trống – đây cũng là một mâu thuẫn to lớn giữa bà con giáo dân với đảng CSVN…. Điều kỳ lạ ở đây là xây dựng vườn hoa Hàng Trống tại số 42 Nhà Chung, nhưng khi đặt tên thì đảng CSVN lại đặt là vườn hoa Hàng Trống và Hàng Trống thì có 1 chữ T- đúng là điềm gở), chữ Tư (trong Điều Thứ Tư của Hiến pháp – một Điều đã và đang bị lên án huỷ bỏ vô cùng gay gắt cả dư luận trong và ngoài nước), chữ Tám Tám (trong Điều 88 của Bộ luật Hình Sự – đây cũng là một Điều luật bị tẩy chay rất nhiều, nhất là kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam ra lệnh bắt bớ và xử ép một loạt các nhà hoạt động cho dân chủ) v.v…

    Nhưng vấn đề đặt ra là khi nào, năm nào thì sẽ có biến động lớn về chính trị? Chúng ta thấy, ngày càng nhiều Trí Thức (2 chữ T) đoàn kết với nhau, cùng ký tên hay viết Thư (T) gửi các lãnh đạo nhà nước để sửa đổi hay phản biện lại chủ trương chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cũng 3 (Tam) lần viết Thư (T) gửi các lãnh đạo nước nhà để phản đối dự án Bauxite – Tây Nguyên. Tuy nhiên, chỉ có vậy thì chắc là chưa đủ. Vậy, khi nào sẽ hội đủ chữ T? Năm 2010 tới đây có liên quan gì đến chữ T không? Xin thưa là cũng có thể, vì năm 2010 là năm thủ đô cũng như cả nước tổ chức Đại lễ kỷ niệm “Thăng Long Nghìn Năm”. Chữ Nghìn thì theo tiếng Nôm vẫn gọi là Thiên, chữ Năm được gọi là Tuế hay Tuổi, còn chữ Long dân gian vẫn quen gọi là Thìn.
    Trong khi đó, Chủ tịch nước ta nhiều khả năng vẫn là ông Triết (T); người đứng đầu cơ quan quyền lực tối cao của Việt Nam vẫn là ông Trọng (T); người đứng đầu thủ đô – nơi diễn ra đại lễ Thăng Long Nghìn Năm vẫn là ông Thảo (T); Thủ tướng Việt Nam (2 chữ T) chắc cũng chưa thể nguôi ngoai với đơn kiện của tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ về vụ Bauxite – một sự kiện chưa từng xảy ra đối với các nước xã hội chủ nghĩa, và cũng là sự kiện hiếm hoi trên thế giới. Như vậy, nhiều khả năng một biến động lớn sẽ xảy ra vào năm 2010. Có lẽ sẽ xuất hiện cuộc xuống đường biểu tình (đấu tranh bất bạo động) lớn nhất trong lịch sử của nước ta vì câu Kiều thứ 2010 cho thấy là: “Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng”.

    Tại sao những vấn đề có chữ T làm đầu, khi hội tụ đầy đủ lại trở thành vấn đề nhức nhối và gây ra biến động đến như vậy? Thực tế chúng ta thấy, chữ T có hình tượng gần giống với chữ hạ trong Hán – Nôm. Mà Hạ có nghĩa là đem xuống dưới thấp, lật xuống, loại ra, gạt ra hay đánh đổ.

    Như vậy, câu thơ thứ 9 của Truyện Kiều có nghĩa là: vào năm nào thuộc triều đại Hồ Chí Minh mà hội tụ đầy đủ chữ T thì sẽ xảy ra biến động lớn làm thay đổi đất nước. Xin quí vị lưu ý câu thứ 9 với con số 9 của bài tứ tuyệt sau:

    “Âm dương đắc dịp trùng phùng
    Khởi ngũ ngũ nhịp chuyển rung ác quyền
    Nước Nam hào khí ba miền
    Tháng năm ngày tổng động viên cửu về”

    Nhân nói về con số 9, hẳn quí vị có biết ngày 2 tháng 7 năm 1976 (2+7=9) nước ta đổi tên thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Và câu thứ 27 trong Truyện Kiều là: “Một, hai nghiêng nước nghiêng thành”.

    Nhìn chung, từ câu thứ 10 trở đi, những tình tiết, những thông điệp được đan sen với nhau không còn theo logic như 9 câu đầu nữa. Về cơ bản, kể từ khi triều đình Huế suy yếu và nhượng bộ Pháp thì câu thứ bao nhiêu sẽ ứng vào năm, tháng, ngày bấy nhiêu . Có những câu đã ứng nghiệm vào năm này xong lại tiếp tục ứng nghiệm vào năm, tháng, ngày khác vì thế càng làm cho ta thấy nó xứng đáng với tên gọi “Câu Thần”. Tuy nhiên, có những điều tôi được phép tiết lộ trong Phần I của “Giải Mã Sấm Kiều”, có những phần chưa được phép tiết lộ vì bảo mật “Thiên Cơ” mà để dành đến Phần II và Phần III. Còn lúc này chúng ta hãy cùng xem Nguyễn Du đã tinh tế, gửi gắm những điều ông biết trước, qua những vần thơ lục bát bất hủ của chính mình như thế nào.

    Sự kiện 11/9 là sự kiện đầy bất ngờ không chỉ với người nước Mỹ mà đối với cả nhân loại thì câu thứ 119 của Truyện Kiều cũng chứa đựng điều bất ngờ ấy: “Một lời nói chửa kịp thưa”.
    Ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton công bố “Bình thường hóa các quan hệ” với Việt Nam thì chúng ta thấy câu Kiều thứ 117 rằng: “Dễ hay tình lại gặp tình”. Hơn thế nữa, ngày 12/7/1995, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ thì câu Kiều thứ 127 lại là: “Hữu tình ta lại gặp ta”. Chưa hết, câu Kiều thứ 1995 (ứng với năm Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập ngoại giao) cho thấy: “Hoa rằng: Bà đã đến lâu”. Hoa ở đây chắc chắn là Hoa Kỳ mà Nguyễn Du đã ngụ ý tới.

    Như phần đầu bài viết tôi đã trình bày, Nguyễn Du sinh năm 1765 và 200 năm sau tức là năm 1965 thì UNESCO đã công nhận ông là Danh nhân Văn hoá Thế giới và câu Kiều thứ 200 là: “Mà sao trong sổ đoạn trường có tên”. Chúng ta lại có dịp được thấy ông nhắc lại từ “Đoạn trường” nhưng lần này là “tập Đoạn trường” vào câu thứ 209 như sau: “Ví đem vào tập Đoạn trường”. Kỳ lạ thay! Ngày Việt Nam tham gia vào Liên Hợp Quốc lại đúng là ngày 20/9/1977. Và câu Kiều thứ 1977 là: “Cùng nhau kể lể say sưa”.

    Trong 3254 câu Kiều, thì cũng có khá nhiều câu mà Nguyễn Du dành để dự báo những vấn đề nổi bật của vua quan nhà Nguyễn trong giai đoạn bị thực dân Pháp chi phối. Ví dụ, câu Kiều thứ 1865 rằng: “Giọt rồng canh đã điểm ba”. Thực tế vào năm 1865 nhà Nguyễn suy yếu, vua Tự Đức nhu nhược đã hạ lệnh cấm nhân dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên không ai được chiêu mộ nghĩa binh chống Pháp nữa; quan lại các tỉnh, phủ, huyện phải có trách nhiệm bắt giữ những người vi phạm lệnh này; những ai cố tình che dấu hoặc chứa chấp những người mộ nghĩa và nghĩa binh đều bị trị tội.

    Ngày 31/8/1874 Triều đình Huế ký Hiệp ước thương mại với Pháp tại Sài Gòn thì câu Kiều thứ 318 là: “Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông”.
    Ngày 6/6/1884 nhà Nguyễn ký hiệp ước với Pháp tại Huế chấp nhận nền bảo hộ của Pháp và sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại thì câu Kiều thứ 1884 là: “Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh”.
    Câu thứ 1888: “Phải khi mình lại xót xa nỗi mình” là lời chia sẻ, xót xa cho vị Vua sáng Hàm Nghi khi ông bị thực dân Pháp bắt đúng năm 1888.
    Câu thứ 1904: “Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!” cũng là lời thương xót cho đấng anh tài nhưng bạc mệnh, vô duyên Phan Bội Châu khi ông cùng với Nguyễn Hàm, Trịnh Hiền, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân thành lập Hội Duy Tân “cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập” vào năm 1904.
    Câu Kiều thứ 1927: “Nhân duyên đâu lại còn mong”, là ngụ ý của Nguyễn Du nói về mối tình ngắn ngủi của Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh khi họ ngậm ngùi chia tay nhau tại Quảng Châu – Trung Quốc năm 1927. Sau này khi Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cả hai đã chủ động tìm và hi vọng về ở với nhau thông qua đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng như cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành.
    Câu 1939: “Những là ngậm thở nuốt than”, thật đúng với hoàn cảnh lịch sử đã xảy ra năm 1939. Lúc ấy, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ; ở Việt Nam thực dân Pháp ra sức đàn áp và cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các hội ái hữu, đóng cửa các tờ báo tiến bộ, truy lùng và bắt bớ các chiến sĩ cánh mạng, các nhà yêu nước, đày đi các trại tập trung, các nhà tù.
    Câu 1941: “Thừa cơ, Sinh mới lẻn ra”. Rõ ràng ở đây ta thấy ngụ ý của Nguyễn Du khi ông nói rõ “Sinh mới lẻn ra” vào câu 1941. Thực tế, Sinh ở đây chính là Nguyễn Sinh Cung – tên cúng cơm của Hồ Chí Minh, ông Hồ đã tranh thủ tình hình thuận lợi lúc bấy giờ mà về nước thành lập hội Mặt Trận Việt Minh năm 1941.
    Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập thì câu Kiều 295 cũng cho chúng ta thấy khá rõ sự kiện này: “Giơ tay với lấy về nhà”. Tuy nhiên, câu Kiều thứ 1945 lại là: “Đã cam chịu bạc với tình”, nghĩa là nhân dân ta đã bắt đầu chấp nhận sự lãnh đạo và áp đặt theo tư tưởng Hồ Chí Minh để rồi sau này bị bội bạc .v.v… Cũng năm 1945, do Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 mà tạo cơ hội thuận lợi cho cách mạng tháng 8 thì câu thứ 93 ta thấy Nguyễn Du viết: “Goị là gặp gỡ giữa đường”.
    Câu kiều thứ 1954: “Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai” là ngụ ý của Nguyễn Du muốn nói đến Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt đất nước và đồng bào làm 2 miền Nam – Bắc, mà danh giới là vĩ tuyến 17 nơi có con sông Bến Hải.
    Câu 1955: “Thẹn mình đá nát vàng phai” là lời nói thay cho vua Bảo Đại khi ông bị ép thoái vị vào ngày 26/10/1955.
    Câu 1956: “Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?” chính là lời trách móc của Nguyễn Du dành cho kẻ hậu thế Hồ Chí Minh, khi ông ta tổ chức chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất giết lầm hàng nghìn người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng. Ngày 18/8/1956 Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm. Ngày nay người ta còn lưu giữ hình ảnh ông Hồ dùng khăn chấm chấm lên mặt như là chấm nước mắt trước cuộc họp.
    Câu 1957: “Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào” chính là lời kể lể của Nông Thị Xuân – người đàn bà của ông Hồ vào năm 1957. Từ năm 1956 ông Hồ cho người về Cao Bằng rước Nông Thị Xuân về Hà Nội làm hộ lý cho ông ta. Đến năm 1957 nàng Nông Thị Xuân đã sinh được cho ông Hồ người con trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Cũng trong năm này, Nông Thị Xuân đòi công khai mối quan hệ tình cảm của hai người. “Chiếc bách sóng đào” ở đây chỉ người đàn bà mong manh, yếu đuối giữa nơi hung hiểm cần phải được che chở bằng cách công khai mối quan hệ. Tuy nhiên, ông Hồ vì tham vọng chính trị đã không những chẳng chấp thuận mà còn để mặc cho cấp dưới hãm hiếp và thủ tiêu Nông Thị Xuân.
    Câu 1958: “Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!” cũng lại là lời trách móc Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã bỏ mặc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải.
    Câu 1968: “Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường” chính là lời bình đau lòng của Nguyễn Du về biến cố Tết Mậu Thân. Nhiều người cho rằng, biến cố Tết Mậu Thân là một cuộc ‘tổng nổi dậy’ của dân quân Miền Nam. Nhưng thật ra, quân ở đây chỉ là những du kích mang danh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do lính Bắc Việt đội lốt. Còn dân ở đây chỉ là những cán bộ Cộng sản nằm vùng được tiếp tay của những kẻ đầu trâu mặt ngựa dẫn đường chỉ điểm. “Tại Huế, Cộng sản mở cửa các nhà tù để sử dụng phạm nhân, những tên tù tội dân sự này được giao nhiệm vụ lục soát, bắt bớ, tập trung và thủ tiêu dân chúng. Dân Miền Nam vừa nghe Việt Cộng tấn công đã bỏ nhà, bỏ ruộng vườn, tài sản, bồng bế nhau liều mạng đạp lên nhau để chạy trốn. Hình ảnh rõ ràng nhất là cảnh dân chúng Quảng Trị chạy trốn Cộng sản trên quốc lộ 1 và dân chúng trên Cao Nguyên bỏ Pleiku tháo chạy khi hay tin Quân Đoàn II rút về Quy Nhơn v.v…”
    Câu 1969: “Nữa khi giông tố phũ phàng,” cũng là lời bình cho hiện tượng bất hạnh Hồ Chí Minh. Chúng ta đều biết ông Hồ đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 và ngày 2-9-1969 thì tự vẫn vì ông nhìn lại quãng đời của mình sau nhiều thăng trầm và tủi nhục. Mặc dù đứng trên đỉnh cao chói lọi, nhưng ông lại không đủ sức để bảo vệ người đàn bà của chính mình. Ông cảm thấy ân hận khi đã chót theo con đường chủ nghĩa cộng sản – một chủ nghĩa quái đản đã huỷ hoại dân tộc và làm khổ biết bao người. Ông Hồ mất năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi và câu thứ 79 của Truyện Kiều là: “Trải bao thỏ lặn, ác tà”.
    Câu 1971: “Liệu mà xa chạy cao bay,” là lời cảnh báo, nhắn nhủ của Nguyễn Du đến hậu thế về cơn lũ lịch sử vào tháng 8 năm 1971. Cơn lũ này đã làm vỡ đê Sông Hồng và 100.000 người đã bị thiệt mạng. Đây chính là cơn lũ lớn nhất trong vòng 250 năm nay ở miền Bắc, và số tổn thất nhân mạng vượt quá sức tưởng tượng so với tổn thất chừng 1000 người trong các cơn lũ lịch sử vào năm 1999 ở miền Trung và năm 2000 ở miền Nam. Trận lũ năm 1971 cũng được liệt kê trong danh sách các trận lụt lớn nhất thế kỷ 20 của Cơ Quan Quản Trị Hải Dương và Khí Tượng Hoa Kỳ.
    Câu 1972: “Ái ân ta có ngần này mà thôi!” là cách nói ngược của tác giả nhằm ám chỉ cuộc xung đột qua lại giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Quân lực Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) năm 1972. Tháng 3 năm ấy, QĐNDVN bắt đầu tổ chức chiến dịch Xuân Hè tấn công qui mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến sâu vào hệ thống phòng ngự của VNCH với lực lượng ban đầu là 14 sư đoàn, 26 trung đoàn độc lập, bao gồm khoảng 120.000 quân, 1200 xe tăng và xe bọc thép. Càng về sau số lượng binh sĩ tham chiến càng đông hơn. Chiến dịch Xuân hè kết thúc vào tháng 10/1972 và VNCH bị thất bại khá nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, Níchxơn đã huy động lực lượng lớn không quân, hải quân đánh trở lại miền Bắc để trả đũa chiến dịch Xuân Hè của Bắc Việt. Từ 18/12/1972 đến ngày 29/12/1972, cả thế giới chứng kiến cuộc không kích khủng khiếp nhất lịch sử chiến tranh hiện đại khi xuất hiện pháo đài bay chiến lược B.52 của Mỹ hòng biến Bắc Việt trở về thời kỳ đồ đá.
    Câu 1973: “Bây giờ kẻ ngược người xuôi,” ngụ ý nói tới cuộc chia tay lịch sử của quân đội Mỹ và quân lực VNCH. Như chúng ta biết, ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris được ký kết và theo đó quân đội Mỹ phải rút hoàn toàn khỏi Việt Nam. Khi quân đội Mỹ đã rút về (xuôi) thì cũng có nghĩa là quân lực VNCH sẽ buộc phải tăng cường lên (ngược) những vùng trọng yếu.
    Câu 1974: “Biết bao giờ lại nối lời nước non?” là lời tiếc nuối khi một phần non nước bị rơi vào tay Trung Quốc và không biết đến bao giờ có thể lấy lại được. Từ ngày 17/1/1974 Hải quân Trung Quốc bắt đầu khai hoả cuộc chiến với Hải quân VNCH và chiếm giữ được quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19/1/1974 cho đến nay.
    Câu 1975: “Dẫu rằng sông cạn đá mòn,” là lời báo trước giang sơn sẽ mất năm 1975. Không chỉ có vậy, hình như ông vẫn muốn an ủi điều gì đó trong này. Có phải ý ông muốn nói: Dẫu rằng đất nước (VNCH) có bị mất thì… tương lại của nó, mô hình của nó, tiếng tăm của nó sau này sẽ được thừa nhận hay sử dụng chăng? Để hiểu rõ hơn ý câu này xin quí vị hãy đọc câu tiếp theo (1976): “Con tằm có thác vẫn còn vương tơ”.
    Câu 1977: “Cùng nhau kể lể say xưa,” là lời báo trước của Nguyễn Du về sự kiện Việt Nam ra nhập Liên Hợp Quốc ngày 20/9/1977. Ta cũng thấy tác giả nhắc đến vấn đề này qua câu thứ 209 rằng: “Ví đem vào tập Đoạn trường”. Đúng là bậc “Thánh Tiên, Thần Văn” mới có thể biết trước và gửi gắm thông tin tinh tế đến vậy!
    Năm 1979: “Mặt trông tay chẳng nỡ rời,” là cách Nguyễn Du nói mỉa mai người Trung Quốc khi kết thúc cuộc chiến tranh biên giới 1979. Trong khi họ tuyên bố “không tham vọng dù chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam”, nhưng kỳ thực, sau cuộc chiến này họ đã chiếm giữ khoảng 60 km2 lãnh thổ và Hữu Nghị Quan của nước ta.
    Câu 1980: “Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.” Nguyễn Du muốn nói đến sự kiện vào năm 1980, người Trung Hoa bên cạnh việc lên tiếng chỉ trích Việt Nam trên mặt trận ngoại giao, họ còn triển khai nhiều quân đoàn đối diện với biên giới và liên tục bắn pháo sang Cao Bằng của nước ta, nhằm gây sức ép buộc Việt Nam phải rút quân từ Campuchia về. Chính năm này cũng mở đầu cho những cuộc nã pháo đánh động suốt 10 năm sau đó.
    Câu 1981: “Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra” là báo trước việc Việt Nam nhẫn nhịn, không muốn tiếp tục trong tình trạng bắn phá nữa nên ngày 02/01/1981 Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề nghị ngừng bắn. Tất nhiên, phía Trung Quốc đã phớt lờ đề nghị này.
    Câu 1984: “Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?” là lời báo trước quân Trung Quốc lại tràn sang biên giới năm 1984, tấn công vào Lạng Sơn, Hà Tuyên, chiếm được một số vị trí quan trọng như đồi 1509 (Lão Sơn), 772 ở phía tây sông Lô và các đồi 1250, 1030, Si Cà Lá (Núi Bạc mà Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn-Zheyin Shan) ở phía đông sông Lô. Chiến sự diễn ra dọc tuyến biên giới dài khoảng 11km, nơi quân Trung Quốc chiếm được sâu nhất trong lãnh thổ Việt Nam là đồi 685 và đồi 468, nằm cách biên giới khoảng 2km.
    Câu 1986: “Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.” Là lời báo trước Việt Nam sẽ phải mở rộng tầm nhìn, học hỏi các nước mà thay đổi. “Xem người viết kinh” ở đây là xem nước khác làm “kinh tế” mà thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế năm 1986.
    Câu 1995: “Hoa rằng: Bà đã đến lâu,” là lời nói của người Hoa Kỳ rằng tôi đã từng đến Việt Nam nhưng năm nay 1995 mới quay lại bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ.
    Câu 2000: “Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than,” là lời báo trước sự cố Y2K toàn cầu.
    Ngày 7/11/2006 Việt Nam vào WTO, ta thấy câu thứ 711 “Niềm riêng riêng những bồi hồi”. Tuy vậy, câu thứ 2006 lại có vẻ đầy lo ngại “Nghĩ càng thêm nổi sờn gai rụng rời”.
    Ngày 16/10/2007 Việt Nam thành thành viên không thường trực Liên Hợp Quốc thì câu thứ 1610 Nguyễn Du có viết: “Xấu chàng mà có ai khen chi mình”. Còn câu thứ 2007 ông viết: “Người đâu sâu sắc nước đời” xin được để dành cho quí vị suy nghẫm.
    Câu thứ 2009: “Thực tang bắt được đường này,” đây là câu ứng với năm nay 2009 một cách rõ nét nhất. “Thực tang bắt được đường này”, Không phải ngụ ý đến những vụ bắt bớ, giam cầm một số nhân vật hoạt động đấu tranh bất bạo động vừa qua với đầy đủ tang chứng, vật chứng. “Thực tang” ở đây là bản chất của lực lượng lãnh đạo đã bị lật tẩy và lộ rõ nguyên hình. “Đường này” cũng không phải là cuốn sách mang tên “Con Đường Việt Nam” trong vụ án Lê Công Định. Vậy “đường này” là đường nào? Phải chăng là đường lối qui phục Trung Quốc của các lãnh đạo qua hàng loạt những vấn đề nổi cộm như vấn đề biên giới, vấn đề lãnh hải và hải đảo, vấn đề Bauxite – Tây Nguyên? Chẳng phải một website của chính phủ Việt Nam chứa đựng những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thể hiện rõ đường lối qui phục của lãnh đạo Việt Nam đó sao?

    Việc xuất hiện cuốn “Ma Chiến Hữu” của người Trung Quốc tại Việt Nam có phải là một tang chứng cho thấy đường lối phản bội lại nền độc lập và tự hào dân tộc của các lãnh đạo nước nhà hay không? Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Du mất năm 1820 nếu tính đến nay thì vừa tròn 189 năm. Nếu chúng ta qui đổi “189 năm” thành con số (1895) thì ta thấy câu thứ 1895 như sau: “Cúi đầu quì trước sân Hoa”. Vậy, Hoa ở đây là ai nếu không phải là Trung Hoa? Nếu là Trung Hoa thì ai cúi đầu quì trước Trung Hoa? Nếu quí vị trả lời được những điều trên thì câu thứ 2010 của Truyện Kiều sẽ không có gì làm khó hiểu.

    Thay cho lời kết “Giải Mã Sấm Kiều Phần I”, tôi xin được trích lại câu thơ thứ 2009 và 2010 để quí vị cùng suy nghẫm:

    “Thực tang bắt được đường này,
    Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng”.

    Việt Nam ngày 23 tháng 7 năm 2009
    (Copy từ Internet)
    Tags: suutam, vn
    Prev: Những điểm gở và chữ “T”
    Next: Sự quan liêu của quan chức cao cấp

    Trả lời

  21. […] [*]http://phapluattp.vn/20100615121344222p0c1013/quoc-hoi-mat-quyen-kiem-soat-cac-sieu-du-an.htm […]

    Trả lời

  22. […] : – Việt nam: Đảng đã lãnh đạo thì Quốc hội có để làm gì?  […]

    Trả lời

  23. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  24. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết đinh đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

  25. […] “Đó là một việc làm thiết thực và có hiệu quả, bỏ các cơ quan không cần thiết và mang tính hình thức như Quốc hội là hợp lòng dân chúng. Quyết định đó chắc chắn sẽ được toàn thể nhân dân ủng hộ nhiệt liệt, hãy dùng khoản ngân sách hàng năm dành cho Quốc hội hàng ngàn tỷ đồng để mở và duy trì mấy cái nhà thương làm phúc, để chữa bệnh cho người nghèo và người già không nơi nương tựa…” (Việt Nam: Đảng đã lãnh đạo thì quốc hội có để làm gì?) […]

    Trả lời

Bình luận về bài viết này